TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ LÒNG TỰ TRẮC ẨN

Lòng tự trắc ẩn (self-compassion) bắt đầu được quan tâm nghiên cứu từ năm 2003, được đánh dấu bằng 2 bài viết khoa học được công bố bởi Kristin D. Neff về định nghĩa và thang đo lòng tự trắc ẩn. Trong bài viết đầu tiên giới thiệu về lòng tự trắc ẩn mang tên “Self- compassion: An Alternative Conceptualization of a Healthy Attitude Toward oneself” (Neff, 2003a), Neff đã đưa ra định nghĩa và ví dụ về lòng tự trắc ẩn. Theo đó, bà đưa ra 3 thành tố của lòng tự trắc ẩn gồm: Nhân ái với bản thân (Self-kindness) – là sự thấu hiểu và thân ái với bản thân mình trong các trường hợp đau buồn hay thất bại trong cuộc sống; Tính tương đồng nhân loại(Common humanity) – là sự chấp nhận kinh nghiệm của mình là một phần của kinh nghiệm rộng lớn của toàn nhân loại thay vì cảm thấy điều mình trải qua là đơn độc và tách biệt; Chánh niệm (Mindfulness) – là sự nhận thức, quan sát các cảm giác và suy nghĩ đau đớn một cách cân bằng hơn là đánh giá, phán xét nó.

Bà cũng chỉ ra rằng: Lòng tự trắc ẩn là thái độ, cảm xúc tích cực về bản thân mình, bảo vệ ta khỏi hậu quả tiêu cực của sự tự đánh giá, sự cô lập và sự suy ngẫm (chẳng hạn như trầm cảm) (Neff, 2003a, tr.85). Trên cơ sở lý thuyết đó, cũng trong năm 2003, trong “Development and validation of a scale to measure self – compassion”, Neff công bố thang đo về sự tự trắc ẩn của bà, gồm 26 items. Trong bài viết này, bà chỉ ra tính khoa học của thang đo về độ tin cậy, phân tích các nhân tố, đồng thời chỉ ra mối tương quan giữa thang đo này với các thang đo thông dụng trước đó như thang lòng tự trọng của Rosenberg (Rosenberg Self-Esteem Scale), thang đo Tự chấp nhận của Berger (Berger’s Self-Acceptance Scale), thang đo Tự xác định (Self-Determination Scale) và thang Nhu cầu tâm lý cơ bản (Basic Psychological Needs Scale). Các kết quả được công bố và phản biện cho thấy đây là một thang đo có tính khoa học cao (Neff, 2003b).

What Research Psychologists Do – Association for Psychological Science – APS

Sau khi được công bố lần đầu năm 2003, đến nay đã có hàng trăm nghiên cứu trên thế giới về lòng tự trắc ẩn được công bố. Đặt biệt là các nghiên cứu về mối tương quan giữa lòng tự trắc ẩn với các yếu tố tâm lý khác.

Mối liên hệ giữa lòng tự trắc ẩn và hạnh phúc, lòng tự trọng, sự lo âu, trầm cảm được quan tâm nghiên cứu. Công trình khoa học “Self-compassion, self-esteem, and well-being. Social and Personality Compass” đã chỉ ra rằng: Lòng tự trắc ẩn  có thể mang lại những lợi ích sức khoẻ tinh thần tương tự như lòng tự trọng, nhưng với ít nhược điểm hơn như ít đánh giá hơn và ổn định hơn. Trong khi lòng tự trọng đòi hỏi phải đánh giá chính mình và thường liên quan đến sự cần thiết phải là đặc biệt và trên trung bình, thì tự trắc ẩn không đòi hỏi tự đánh giá hoặc so sánh với người khác mà thay vào đó, là nhìn nhận một cách nhân ái, kết nối với chính mình ngay cả trong những trường hợp thất bại, nhận thức không đầy đủ, và không hoàn hảo (Neff, 2011, tr.1). Nghiên cứu “Men’s Self-Compassion and Self-Esteem: The Moderating Roles of Shame and Masculine Norm Adherence. Psychology Of Men; Masculinity” chỉ ra lòng tự trắc ẩn và lòng tự trọng có tương quan thuận, khá chặt với nhau (r=0,51, p<0,01) (Reilly, E. D., Rochlen, A. B.; Awad, G. H., 2013, tr.3). Một nghiên cứu khác mang tên “The Relationships Between Psychological Flexibility, Self-Compassion, and Emotional Well-Being” cho thấy: lòng tự trắc ẩn có tương quan thuận và chặt với lòng tự trọng (r= 0,67, p<0,01), tương quan nghịch với mức đô trầm cảm (r=-0,552, p<0,01), tương quan nghịch với sự lo âu (r=-0,353, p<0,01) (Marshall, E. J.; Brockman, R. N. , 2016, tr.67).

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối tương quan giữa lòng tự trắc ẩn với sự đánh giá hình ảnh cơ thể và hành vi ăn được công bố. Webb, J. B.; Forman, M. J. (2013) trong nghiên cứu “Evaluating the indirect effect of self-compassion on binge eating severity through cognitive–affective self-regulatory pathways” trên 215 sinh viên đại học (78% là nữ) chỉ ra rằng: mức độ tự trắc ẩn tương quan nghịch với hành vi ăn uống quá độ (r= -0,21, p<0,001) (Webb, J. B., Forman, M. J. , 2013,tr.3). Trong một nghiên cứu khác mang tên “Self-compassion moderates the relationship between body mass index and both eating disorder pathology and body image flexibility” của Kelly và cs ( 2014), 153 nữ sinh viên đã thực hiện một loạt các bảng khảo sát về lòng tự trắc ẩn, cân nặng, lòng tự trọng, hình ảnh cơ thể, thói quen ăn uống và cân nặng – chiều cao thực tế của mình. Nghiên cứu chỉ ra:”Phụ nữ có thể trải nghiệm một hình ảnh cơ thể cùng những thói quen ăn uống tích cực hơn nếu họ đương đầu với những thất vọng và phiền muộn với sự tử tế cùng việc nhận ra rằng những khó khăn đó là một phần thông thường của cuộc sống. Cách chúng ta đối xử với bản thân trong những thời khắc khó khăn, những điều xem ra chẳng liên hệ gì tới ăn uống hay cơ thể, lại có vẻ có ảnh hưởng đến cách thức chúng ta cảm nhận về cơ thể mình cùng cách chúng ta sử dụng thức ăn. Bất kể cân nặng cùa mình như thế nào, những phụ nữ có lòng tự trắc ẩn cao thường có hình ảnh về cơ thể tích cực hơn, đồng thời họ cũng ít lo lắng hơn về cân nặng, hình thể hay việc ăn uống của mình. Khả năng chấp nhận và thông hiểu bản thân không hẳn giúp chúng ta nhìn cơ thể mình theo cách tích cực hơn, mà thực ra giúp ta nhận ra những khiếm khuyết cơ thể của bản thân và chấp nhận chúng.” (Kelly et al., 2014, tr. 446).

Các nghiên cứu về sự khác biệt mức độ tự trắc ẩn theo giới tính, lứa tuổi cũng được công bố rộng rãi. Bluth, K., Campo, R. A., Futch, W. S., Gaylord, S. A. trong nghiên cứu “Age and gender differences in the associations of self-compassion and emotional well-being in a large adolescent sample” đã chỉ rõ: Phụ nữ cao tuổi có mức độ tự trắc ẩn thấp hơn so với phụ nữ trẻ tuổi và nam giới ở mọi lứa tuổi. Đồng thời, đối với lứa tuổi thanh niên, lòng tự trắc ẩn có vai trò bảo vệ khỏi lo lắng ở nam cao hơn ở nữ. (Bluth, K., Campo, R. A., Futch, W. S.; Gaylord, S. A., 2016, tr.1). Nghiên cứu của Sun, X., Chan, D. W.; Chan, L. K. (2016, tr.288) tiến hành trên 277 trẻ từ 12-16 tuổi ở Hồng Kong, chỉ ra rằng: Không có sự khác biệt về mức độ tự trắc ẩn giữa bé trai và bé gái tại Hồng Kong. Tương tự vậy, một nghiên cứu khác mang tên “Meta-analysis of gender differences in self-compassion” chỉ ra rằng: Không có sự khác biệt lớn về mức tự trắc ẩn giữa các giới tính khác nhau. (Yarnell, L. M., Stafford, R. E., Neff, K. D., Reilly, E. D., Knox, M. C. Mullarkey, M., 2015, tr.1).

Nhiều nhà khoa học cũng quan tâm nghiên cứu về lòng tự trắc ẩn và quan hệ liên cá nhân. Nghiên cứu ” Interpersonal problem solving, self-compassion and personality traits in university students” tiến hành trên 570 sinh viên chỉ ra rằng: lòng tự trắc ẩn tương quan thuận với tính trách nhiệm (r= 0,17, p<0,01), sự hướng ngoại (r=0,26, p<0,01), tính cởi mở với trải nghiệm (r=0,26, p<0,01), sự kiên trì (r=0,21, p<0,01) nhưng lại có tương quan nghịch với sự thiếu tự tin (r= -0,34, p<0,01) với giải quyết vấn đề bằng cách tiêu cực (r= -0,63, p<0,01) (Arslan, C., 2016, tr.447). Nghiên cứu “The role of self-compassion in romantic relationships” tiến hành trên 104 cặp yêu nhau chỉ ra rằng: các cá nhân có mức độ tự trắc ẩn cao thì có các hành vi tích cực hơn là những người có chỉ số này thấp (Neff, K. D., Beretvas, S. N. , 2013, tr.1).

Bên cạnh đó, các nghiên cứu về lòng tự trắc ẩn và yếu tố khác biệt văn hóa cũng được quan tâm. Nghiên cứu “Self-compassion and empathy across cultures: Comparison of young adults in China and the United States” của Birkett, M. A. (2013) chỉ ra rằng: Không có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa sinh viên Mỹ và Trung Quốc về mức độ tự trắc ẩn nói chung nhưng lại có sự khác biệt về các thành tố của lòng tự trắc ẩn; trong đó sinh viên Trung Quốc có mức Nhân ái với bản thân (self-kindness), Tính tương đồng nhân loại(Common humanity) cao hơn sinh viên Mỹ (Birkett, M. A.,2013, tr.25). Một nghiên cứu khác mang tên “Self-compassion and self-construal in the United States, Thailand, and Taiwan” của Neff, K. D., Pisitsungkagarn, K.; Hseih, Y. (2008) chỉ ra rằng: Sự khác biệt về mức độ tự trắc ẩn giữa các xã hội Mỹ, Thái Lan và Đài Loan có liên quan đến đặc điểm đặc trưng về văn hóa của quốc gia đó hơn là sự khác biệt tổng thể văn hóa Đông Tây (K. D., Pisitsungkagarn, K; Hseih, Y., 2008, tr.267).

Ngoài ra, các nghiên cứu được công bố về đào tạo rèn luyện lòng tự trắc ẩn nói chung và sự chánh niệm (mindfulness), một thành tố của tự trắc ẩn, nói riêng có ý nghĩa thực tiễn cao. Trong công bố “Mindfulness Training Effects for Parents and Educators of Children With Special Needs” các tác giả đã chỉ ra rằng: Những người tham gia khóa đào tạo Chánh niệm trong vòng 2 tháng cho thấy sự giảm đáng kể các vấn đề lo âu, stress đồng thời gia tăng đáng kể lòng tự trắc ẩn và chánh niệm, sự tự chủ trong các mối quan hệ cũng gia tăng một cách tích cực (Benn, R., Akiva, T., Arel, S.; Roeser, R. W., 2012, tr.1).

Tóm lại, các nghiên cứu về lòng tự trắc ẩn trên thế giới bắt đầu từ những năm 2003 nhưng được phổ biến và phát triển vô cùng rộng rãi thể hiện qua số lượng rất lớn các nghiên cứu về chủ đề này, trên nhiều quốc gia, thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau.

Trần Minh Điệp (Martin)

(Bản quyền bài viết thuộc về VCP – Tâm lý học tâm thức Việt Nam, vui lòng liên hệ VCP trước khi sử dụng)

Bài viết liên quan
Contact Me on Zalo