Lòng tự trắc ẩn (self-compassion) về mặt lý luận có thể tìm thấy mối liên hệ với hạnh phúc thông qua các đặc điểm của chúng. Zessin và cộng sự chỉ ra rằng: Các đánh giá về tình trạng cuộc sống quyết định mức độ hạnh phúc. Lòng tự trắc ẩn có thể không mở rộng trực tiếp các trải nghiệm tích cực nhưng nó có thể làm yếu đi các tác động của các trải nghiệm tiêu cực; nhờ đó, đánh giá về tình hình cuộc sống trở nên tích cực hơn, kết quả là gia tăng hạnh phúc. Ngoài ra, khi có lòng tự trắc ẩn, cá nhân sẽ không quá chỉ trích bản thân mình về nhứng sai lầm hay thất bại mà có cái nhìn nhân ái hơn về bản thân mình, với quan niệm tích cực này sẽ góp phần gia tăng hạnh phúc. (dẫn theo Zessin & cs, 2015, tr.344).
Neff cũng chỉ ra lòng tự trắc ẩn có liên hệ với hạnh phúc vì nó giúp con người cảm thấy an toàn và yên tâm. Lòng tự trắc ẩn dẫn tới quan niệm nhận thức-cảm xúc, với việc phản ứng với các trải nghiệm tiêu cực với lòng Nhân ái với bản thân, Chánh niệm và coi đó là một phần của con người (tính toàn thể). Trong quá trình đó, lòng tự trắc ẩn không chỉ đơn giản thay thế các cảm nhận tiêu cực bằng tích cực, mà thay vào đó, cá nhân với mức độ cao của lòng tự trắc ẩn sẽ chấp nhận các trải nghiệm tiêu cực đó. (Neff, 2011, tr. 7). Với quá trình nhận thức- cảm xúc này, sẽ ảnh hưởng tới mức độ hạnh phúc của cá nhân.
Về nghiên cứu thực tiễn, nhiều nghiên cứu định lượng trên thế giới đã được tiến hành để xác định mối liên hệ giữa lòng tự trắc ẩn và hạnh phúc.
Tác giả Zessin và cộng sự (2015) trong nghiên cứu “The Relationship Between Self-Compassion and Well-Being: A Meta-Analysis” đã tìm ra mối tương quan có ý nghĩa giữa lòng tự trắc ẩn và hạnh phúc là tương quan thuận và chặt với hệ số r= 0,47. (Zessin & cs, 2015, tr.340).
Nghiên cứu “Meditation and happiness: Mindfulness and self-compassion may mediate the meditation–happiness relationship” của Daniel Campos và cộng sự (2015) cũng cho ra kết quả tương tự. Cụ thể là nghiên cứu này đã cho thấy mối tương quan thuận và chặt giữa hạnh phúc với lòng tự trắc ẩn nói chung và với cả 3 thành tố của nó. Hệ số tương quan (r) giữa hạnh phúc và Lòng tự trắc ẩn nói chung, thành tố Nhân ái với bản thân, Chánh niệm và Tính tương đồng nhân loại lần lượt là 0,63 (p<0,01), 0,588 (p<0,01), 0,546 (p<0,01), 0,558 (p<0,01). (Daniel Campos & cs, 2015).
Nghiên cứu “Mindfulness, self-compassion, and happiness in non-meditators: A theoretical and empirical examination” của L. Hollis-Walker, K. Colosimo (2010), tiến hành trên 27 khách thể nam, 96 khách thể nữ với độ tuổi trung bình là 20,9 cho thấy tương quan thuận, chặt giữa lòng tự trắc ẩn nói chung và thành tố chánh niệm nói riêng với hạnh phúc tâm lý cụ thể hệ số tương quan giữa lòng tự trắc ẩn và hạnh phúc tâm lý là r= 0,42 (p<0,05); giữa chánh niệm và hạnh phúc tâm lý là r= 0,46 (p<0,05) (L. Hollis -Walker, K. Colosimo, 2010, tr.225).
Như vậy, cả về mặt lý luận cũng như nghiên cứu thực tiễn đều chỉ ra có mối liên hệ giữa lòng tự trắc ẩn và mức độ hạnh phúc. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc cá nhân có thể gia tăng mức độ hạnh phúc cá nhân bằng cách gia tăng lòng trắc ẩn với chính mình, thông qua việc gia tăng các thành tố của lòng tự trắc ẩn: Nhân ái với bản thân, chánh niệm và tính tương đồng nhân loại.
Trần Minh Điệp (Martin)
(Bản quyền bài viết thuộc về VCP – Tâm lý học tâm thức Việt Nam, vui lòng liên hệ VCP trước khi sử dụng)